Xuất khẩu lao động Người_Việt_tại_Đài_Loan

Đài Loan là một địa điểm quan trọng cho lao động xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt trong công nghiệp nặng và ngư nghiệp. Năm 2002, lao động Việt Nam tại Đài Loan chiếm khoảng 28,5% (13.200 người) trong số 46.200 người Việt Nam đang lao động ở nước ngoài, khiến Đài Loan làm nước đứng thứ nhì, trước Lào và chỉ sau Malaysia; ngay cả sau khi xuất khẩu lao động Việt Nam đến Hàn QuốcNhật Bản đã giảm bớt, Đài Loan vẫn giữ vị trí quan trọng của mình[3].

Từ khi Hội đồng Lao động của Đài Loan cho phép thuê mướn người Việt Nam năm 1999, ô-sin Việt Nam bắt đầu chiếm tỷ lệ lớn của phụ nữ Việt Nam tại Đài Loan. Giữa những năm 2000 và 2003, số người ô-sin Việt Nam đã tăng gấp 15 lần, từ 2.634 người đến 40.397 người, biến họ trở thành nhóm ô-sin lớn thứ nhì theo quốc gia, cao hơn cả người Philippines và sau người Indonesia; họ chiếm khoảng 1/3 tổng số người giúp việc tại gia ở đảo này. Người Philippines trước đây là nhóm giúp việc lớn nhất, vì kiến thức tiếng Anh của họ cho phép họ làm người dạy kèm lý tưởng cho con cháu trong gia đình họ giúp việc. Tuy nhiên, kiến thức tiếng Anh tốt của họ làm quan hệ chủ-tớ mất cân bằng vì các người chủ ít có kiến thức tiếng Anh; người Việt và người Indonesia được chọn vì họ có ít kiến thức tiếng Anh hơn, và vì thế họ có ít khả năng lập nhóm và tìm hiểu thông tin ở ngoài xã hội Đài Loan hơn[4].

Đến năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu 37.700 lao động đến Đài Loan hằng năm, hầu hết làm người giúp việc nhà và nhân viên bệnh viện. Tuy nhiên, trong năm 2005, chính phủ Đài Loan đã ra lệnh ngừng tuyển người Việt vì người Việt có tỷ lệ bỏ việc cao nhất trong tất cả các người châu Á tại Đài Loan. Đến năm sau, Đài Loan và Việt Nam đã thương lượng lại hợp đồng cho lao động Việt Nam, kéo dài thời gian làm việc từ ba đến sáu năm và cắt bớt thủ tục, và lập ra một chính sách chính thức để người lao động có thể than phiền về các người chủ; tuy nhiên, số tiền đặc cọc cũng được tăng lên, nhằm giảm tỷ lệ bỏ hợp đồng của các lao động[2].